Bài viết mới nhất
Tất cả bài viết
-
▼
2015
(47)
-
▼
tháng 7
(46)
- Chiến lược trọng tâm
- Ưu và nhược điểm của chiến lược khác biệt hóa
- Nội dung chiến lược khác biệt hóa
- Khái niệm chiên lược khác biệt hóa
- Ưu và nhược điểm của chiến lược chi phí thấp
- Các phương thức tiết kiệm chi phí
- Phương thức cơ bản tiết kiệm chi phí
- Chiến lược cạnh tranh – Khái niệm của chiến lược c...
- Các loại lợi thế cạnh tranh
- Khái niệm của lợi thế cạnh tranh
- Chế độ sở hữu Công của nhà nước phong kiến Việt Nam
- Phương pháp phân tích SWOT
- Các nhóm chiến lược có thể hình thành
- Tác động của nguồn nhân lực đối với doanh nghiệp
- Những yếu tố giúp xây dựng ma trận SWOT
- Hoạt động, yếu tố tác động tới doanh nghiệp
- Sản xuất là gì?
- Phân tích các chức năng chủ yếu trong doanh nghiệp
- Các khâu trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp
- Đánh giá các hoạt động chủ doanh nghiệp
- Các hoạt động liên quan trực tiếp đến quá trình sả...
- Môi trường nội bộ doanh nghiệp
- Phân tích môi trường nội bộ doanh nghiệp
- Rào cản ngăn cản sự rút lui khỏi ngành
- Phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại
- Rào cản tài chính
- Phân tích mỗi đe dọa từ sản phẩm thay thế
- Phân tích áp lực từ nhà cung cấp
- Quyền lực đàm phán
- Phân tích môi trường ngành của doanh nghiệp
- Môi trường văn hóa xã hội và tự nhiên ảnh hưởng tớ...
- Môi trường kinh tế và chính trị pháp luật của doan...
- Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp
- Khái quát về môi trường của doanh nghiệp
- Nội bộ doanh nghiệp ảnh hưởng tới chiến lược
- Môi trường bên ngoài của doanh nghiệp
- Xác định mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược
- Tầm quan trọng của quản trị chiến lược
- Quá trình ra đời của quản trị chiến lược
- Phân loại chiến lược theo cách thức cạnh tranh
- Phân loại chiến lược theo phạm vi hoạt động
- Phân loại chiến lược theo định hướng hoạt động
- Chiến lược cấp đơn vị và cấp chức năng
- Vai trò của chiến lược doanh nghiệp
- Các khái niệm liên quan tới chiến lược
- Lịch sử ra đời của chiến lược kinh doanh
-
▼
tháng 7
(46)
Được tạo bởi Blogger.
So với các quốc gia phong kiến Tây Âu, nhà nước phong kiến Việt Nam thiết lập và tồn tại trên chế độ sở hữu không thuần nhât: sở hữu công và sở hữu tư nhân.
Sở hữu công là chế độ sở hữu giữ vai trò chủ đạo và thê hiện dưới 2 hình thức: Sở hữu nhà nước và sở hữu làng xã.Sở hữu nhà nước:
Quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất không được khẳng định trực tiếp trong các văn bản pháp luật. Từ thê kỉ X với sự xuất hiện chế độ trung ương tập quyền, các nhà nước thế kỉ X đã mặc định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc nhà nước: Quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất dần trở thành tập quán chính trị bền vững được pháp luật các triều đại bảo vệ. Khăng định quyền sở hữu tối cao, nhà nước giữ lại 1 bộ phận ruộng đất trực tiếp quản lí, sử dụng phần còn lại đã trao quyền quản lí sử dụng cho các chủ thể khác. Đây chính là cơ sở hình thành chế độ sở hữu ruộng đất đa hình thức (sở hữu chồng – sở hữu kép).
Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí và sử dụng không lớn bao gồm: Tịch điền, ruộng sơn lăng, ruộng phong cấp, ruộng quốc khố, đồn điền, đất hoang… Dù trên danh nghĩa hay là sở hữu thực tế, quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất đều là quyền sở hữu tối cao với đầy đủ 3 quyền năng.
Sở hữu làng xã (công điền, quan điền):
Vừa là tàn dư của công xã nông thôn vừa là kết quả của quá trình phong kiến hoá vềruộng đất nên sở hữu làng xã là sở hữu kép (danh nghĩa thuộc sở hữu nhà nước nhưng thực tế lại thuộc sở hữu làng xã). Sự tồn tại của ruộng đất làng xã không những giúp nhà nước thực hiện được chính sách đoàn kết dân tộc, duy trì, phát huy được truyền thống tự trị, tự quản làng xã mà còn đảm bảo được nguồn thu tô, thuế, lao dịch, binh dịch.
Do vai trò quan trọng của ruộng đất làng xã, các triều đại phong kiến đều ban hành chính sách ruộng đất nhằm quản lí và bảo vệ hình thức sở hữu này. Nếu từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV nhà nước cho phép làng xã tự phân chia ruộng đất theo tập quán thì từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, làng xã buộc phải phân chia ruộng đất theo chính sách quân điền do nhà nước ban hành. Để bảo vệ ruộng đất công, ngoài việc nghiêm cấm hành vi bán ruộng đất khẩu phần (quân điền) của cư dân làng xã, nhà nước còn sẵn sàng can thiệp tới mức thô bạo khi ruộng đất công bị thu hẹp mà các biện pháp cải cách điền địa của Hồ Quý Ly và Minh Mạng là minh chứng cụ thể. Sự quyết liệt trong việc bảo vệ ruộng đất công của các triều đại phong kiến khiến ruộng đất công luôn là bộ phận ruộng đất giữ vai trò chủ đạo, tới giữa thế kỉ XIX ruộng đất công làng xã vẫn chiếm trên 50% diện tích đất canh tác.
Đọc thêm tại:
- http://giaotrinhquantrichienluoc.blogspot.com/
- http://giaotrinhquantrichienluoc.blogspot.com/2015/04/quan-tri-chien-luoc-la-gi.html
- http://giaotrinhquantrichienluoc.blogspot.com/2015/07/phuong-phap-phan-tich-swot.html